Trong bối cảnh thị trường hiện nay, sự biến động về giá cả, nhu cầu tiêu thụ và các chính sách mới đang tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức cho người nuôi trồng và doanh nghiệp chế biến. Bài viết này cập nhật những thông tin nóng hổi và xu hướng nổi bật trong ngành thủy sản tại tuần 50. Mời bà con điểm qua những tin tức nổi bật nhất trong tuần qua để nắm bắt tình hình và xu hướng thị trường!
Bình Dương: Kiếm tiền tỷ từ nghề nuôi cá cảnh công nghệ cao
Tại trang trại của anh Lê Văn Huệ, ở xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng, mỗi năm mang lại doanh thu lên đến hàng tỷ đồng từ nghề nuôi cá cảnh ứng dụng công nghệ cao.
Khi ghé thăm trang trại cá cảnh của anh Huệ, bạn sẽ cảm nhận được sự đam mê và tâm huyết của anh. Hệ thống bể kính được thiết kế tinh tế, kèm theo hệ thống cấp thoát nước tự động, cùng với hồ rộng rãi để nuôi cá bột và hệ thống phun sương tự động giúp cung cấp oxy và lọc tạp chất trong nước.
Trước đây, anh Huệ chủ yếu phụ thuộc vào công nhân địa phương để quản lý hồ cá, nhưng giờ đây, trang trại của anh đã chuyển sang sử dụng công nghệ và máy móc, giúp quá trình sản xuất trở nên dễ dàng và tiết kiệm chi phí nhân công.
Anh Huệ chia sẻ rằng niềm đam mê với cá cảnh bắt đầu khi anh còn là sinh viên ngành công nghệ thông tin tại TP.HCM. Thời gian đó, anh đã mua một cặp cá để giải trí trong thời gian ở trọ. Khi trở về làm việc tại Viễn thông Bình Dương, anh đã không ngừng học hỏi kỹ thuật nuôi cá và đầu tư toàn bộ thu nhập hàng tháng vào việc mua cá.
Từ sở thích ban đầu, anh Huệ đã biến nó thành một nguồn thu nhập đáng kể, thậm chí là cách làm giàu khi anh quyết định dấn thân vào kinh doanh cá cảnh. Vì chưa có vốn lớn để đầu tư, anh đã thuê ao ở phường An Tây (TP. Bến Cát) để nuôi các giống cá như tứ vân, hồng nhung, cánh buồm… Quyết định này tuy mạo hiểm nhưng nhờ vào đam mê và sự tính toán kỹ lưỡng, anh đã gặt hái thành công. Cá phát triển tốt, thu hút sự chú ý của nhiều chủ vựa cá.
Năm 2005, sau khi đạt được thành công với cá nội địa, anh mở rộng trang trại lên 1.200m² để nuôi cá dĩa. Anh đã mạnh dạn thả 2.000 con cá giống vào hồ lót bạt, và lại một lần nữa gây tiếng vang khi cá phát triển khỏe mạnh và được tiêu thụ mạnh mẽ tại TP.HCM, Bình Dương và các vùng lân cận.
Khi đã có vốn, anh Huệ quyết định trở về Thanh Tuyền để xây dựng trang trại lớn hơn. Trang trại của anh được thiết kế hiện đại với hệ thống bể kính và tự động hóa trong cấp thoát nước, cùng hệ thống phun sương để cung cấp oxy và lọc tạp chất.
Tại cơ sở mới, anh bắt đầu nuôi các giống cá phổ biến như cá bao, bông cúc, bồ câu, nhờ giá cả hợp lý và dễ tiêu thụ. Sau đó, anh đã xuất khẩu cá sang nhiều quốc gia như Singapore, Malaysia, Đài Loan, Indonesia, và Mỹ.
Việc khởi nghiệp từ cá cảnh và sử dụng đất vườn nhiễm phèn để xây dựng thương hiệu cá cảnh uy tín cho thấy tiềm năng lớn của ngành nuôi trồng này, đặc biệt là nông nghiệp ở Thanh Tuyền.
Theo anh Huệ, để tạo dựng thương hiệu vững mạnh và tăng thu nhập, cần lựa chọn những giống cá độc đáo, ít người nuôi và có nhu cầu thị trường cao. Năm 2010, bên cạnh cá vàng và cá dĩa, anh quyết định nuôi cá ông tiên Ai Cập, một loài cá hoang dã từ Colombia.
Cá ông tiên Ai Cập có tỷ lệ sống sót trong môi trường nhân tạo thấp và không dễ dàng sinh sản, với mỗi năm chỉ đẻ một lần. Để phát dục, cá cần khoảng 4 đến 6 tháng, và mất đến 3 năm mới có thể sinh sản lần đầu.
Khi nói về việc xuất khẩu cá, anh Huệ chia sẻ: “Nhiều điều không ai nghĩ tới nhưng thật sự, tôi đã xuất khẩu cá sang Singapore, Đài Loan… và được thị trường ở đó ưa chuộng. Tôi tin rằng nếu phát triển đúng hướng, nghề nuôi cá cảnh tại Việt Nam sẽ rất hấp dẫn và mang lại hiệu quả kinh tế cao.”
Theo anh, nuôi cá cảnh hay bất kỳ loài vật nào cũng đòi hỏi người nuôi phải kiên trì, đam mê và không ngừng tìm hiểu về giống vật nuôi. Để thành công, cần dành tâm sức cho việc nuôi cá.
Kỹ thuật chăm sóc cũng rất quan trọng để tạo ra những con cá đẹp và có giá trị trên thị trường. “Nuôi cá cảnh cao cấp không nhất thiết phải cần diện tích lớn, chỉ cần sáng tạo trong việc sắp xếp hồ nuôi là có thể làm giàu. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là người nuôi phải kiên trì và đam mê, cùng với sự hỗ trợ kịp thời từ địa phương và ngành chức năng,” anh Huệ chia sẻ thêm.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 49
Cần Thơ: Giải pháp phát triển bền vững cho ngành tôm ĐBSCL
Với lợi thế từ hệ thống ao hồ, sông rạch và diện tích mặt nước phong phú, nhiều địa phương tại vùng ĐBSCL đã chú trọng vào việc khuyến khích và hỗ trợ người dân phát triển nuôi trồng thủy sản. Sản lượng thu hoạch ngày càng gia tăng, không chỉ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu mà còn góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Đặc biệt, diện tích nuôi tôm nước lợ ngày càng mở rộng, cùng với sản lượng thu hoạch tăng trưởng mạnh mẽ.
Phát huy tiềm năng sản xuất
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), hàng năm, cả nước có khoảng 600.000ha diện tích nuôi tôm sú và 150.000ha nuôi tôm thẻ chân trắng. Sản lượng thu hoạch tôm sú đạt khoảng 300.000 tấn, trong khi tôm thẻ chân trắng đạt khoảng 700.000 tấn. Tôm thẻ chân trắng phát triển mạnh mẽ ở ĐBSCL, đóng góp quan trọng cho kim ngạch xuất khẩu tôm của cả nước. Các tỉnh chính có diện tích nuôi tôm lớn bao gồm Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre và Kiên Giang.
Trong suốt 20 năm qua, ngành tôm đã giữ vai trò quan trọng trong xuất khẩu thủy sản Việt Nam, đóng góp khoảng 40-45% tổng giá trị xuất khẩu, tương đương khoảng 4 tỷ USD mỗi năm. Hiện nay, tôm Việt Nam đã có mặt tại 100 quốc gia, trong đó 5 thị trường lớn nhất là châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Nhờ những nỗ lực không ngừng, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về cung cấp tôm, chiếm 13-14% tổng giá trị xuất khẩu tôm toàn cầu. Đặc biệt, ĐBSCL đóng góp tới 95% sản lượng tôm và là trung tâm của các nhà máy chế biến tôm, với khoảng 200 nhà máy được Ủy ban châu Âu phê duyệt.
Tuy nhiên, ngành tôm cũng đang đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, chất lượng giống, phương pháp nuôi chưa hiệu quả, ô nhiễm môi trường và dịch bệnh. Ông Ngô Tiến Chương – Trưởng nhóm Thủy sản thuộc Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ), cho biết, nhu cầu toàn cầu về thủy sản đang gia tăng, trong khi các phương pháp sản xuất truyền thống không thể đáp ứng nếu ngành tôm tại Việt Nam, đặc biệt là ĐBSCL, không có sự thay đổi. Do đó, việc đổi mới công nghệ và áp dụng kỹ thuật nuôi trồng tiên tiến là rất cần thiết để đảm bảo sản xuất tôm hiệu quả, bền vững và có trách nhiệm với môi trường.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 48
Phát triển an toàn và bền vững
Để nâng cao hiệu quả trong nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu, ngành tôm Việt Nam đã không ngừng phát triển cả về quy mô, quản lý kỹ thuật, năng lực chất lượng và quản lý tác động môi trường trong toàn bộ chuỗi cung ứng, từ trại sản xuất giống, nhà máy thức ăn chăn nuôi, trại nuôi đến nhà máy chế biến và xuất khẩu thông qua các kho lạnh hiện đại. Các chương trình chứng nhận quốc tế về thực hành nuôi trồng thủy sản tốt, như BAP, Global GAP và ASC, ngày càng gia tăng, cho thấy nuôi tôm tại Việt Nam không chỉ an toàn mà còn bền vững. Để đạt được những chứng nhận này, các trang trại phải tuân thủ các tiêu chí nghiêm ngặt về pháp luật, bảo vệ môi trường và sử dụng nguồn tài nguyên có trách nhiệm.
Để xây dựng chuỗi giá trị ngành tôm hiệu quả, Dự án “Cải thiện hệ thống tuần hoàn nước phục vụ nuôi trồng thủy sản bền vững (i4Ag)” đã được GIZ triển khai. Dự án này áp dụng các giải pháp công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhằm bảo vệ hệ sinh thái và hướng tới sự phát triển bền vững cho ngành tôm tại ĐBSCL. Tại lễ khởi động dự án, ông Đào Trọng Hiếu – Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), đã chỉ ra rằng phụ phẩm tôm chủ yếu phục vụ cho chăn nuôi (chiếm tới gần 70%), trong khi giá trị từ chế biến phụ phẩm tôm có thể cao gấp 3-30 lần nếu được sử dụng đúng cách.
Do đó, phụ phẩm tôm cần được coi trọng như chính phẩm, với giá trị cao hơn. Các giải pháp đầu tư hạ tầng đồng bộ, kết nối chuỗi cung ứng và khuyến khích doanh nghiệp nâng cấp trang thiết bị để xử lý và tiêu thụ phụ phẩm là rất cần thiết. Ông Đào Trọng Hiếu cũng đề xuất đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tái chế và ứng dụng công nghệ xử lý nước thải, chất thải rắn để cải thiện môi trường trong ngành tôm.
Ông Ngô Tiến Chương cũng giới thiệu ba giải pháp đổi mới sáng tạo đang được triển khai tại hai tỉnh Sóc Trăng và Cà Mau. Đó là hệ thống nuôi tôm thâm canh tuần hoàn khép kín (RAS), mô hình nuôi tôm – rừng cải tiến, và giải pháp cải thiện chất lượng nước. Nếu dự án này thành công, nó sẽ được mở rộng ra các tỉnh nuôi tôm nước lợ khác ở ĐBSCL.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 47
Lâm Đồng: Sản lượng cá nước lạnh đạt 2.300 tấn/năm
Cá nước lạnh đã trở thành sản phẩm nông nghiệp chủ lực trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững, toàn diện và hiện đại của tỉnh Lâm Đồng. Với sản lượng đạt 2.300 tấn mỗi năm, giá trị kinh tế từ cá nước lạnh ước đạt khoảng 450 tỷ đồng.
Cá nước lạnh, bao gồm cá tầm và cá hồi, là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là trứng cá tầm muối (Caviar) được ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Từ năm 2004 – 2005, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I đã nhập khẩu trứng cá thụ tinh để thử nghiệm nuôi tại huyện Sa Pa (Lào Cai). Đến năm 2006, cá tầm được đưa vào nuôi thử nghiệm tại Lâm Đồng, và hiện nay cá nước lạnh, chủ yếu là cá tầm, đã được phát triển tại 21 tỉnh trên toàn quốc, tập trung chủ yếu ở phía Bắc và Tây Nguyên.
Tỉnh Lâm Đồng có khí hậu lý tưởng cho phát triển nông nghiệp, bao gồm cả nuôi cá nước lạnh. Ông Nguyễn Văn Châu, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Lâm Đồng, cho biết từ năm 2006, toàn tỉnh đã phát triển 109 cơ sở nuôi cá nước lạnh, với tổng diện tích khoảng 54 ha và 640 lồng bè trên các hồ thủy lợi và thủy điện.
Các huyện như Lạc Dương, Đam Rông, Di Linh, Bảo Lâm, Lâm Hà và TP Đà Lạt đang có phong trào nuôi cá nước lạnh phát triển mạnh mẽ. Sản lượng cá nước lạnh đạt 2.300 tấn/năm, mang lại giá trị kinh tế ước đạt 450 tỷ đồng. Ngoài ra, hàng năm Lâm Đồng sản xuất hơn 5 triệu con cá tầm giống để phục vụ nhu cầu trong tỉnh và cung cấp cho một số tỉnh lân cận.
Việc tiêu thụ sản phẩm cá nước lạnh diễn ra thuận lợi nhờ vào chuỗi liên kết từ sản xuất giống, nuôi thương phẩm, cung ứng thức ăn cho đến tổ chức thị trường tiêu thụ. Điều này giúp nghề nuôi cá nước lạnh đạt hiệu quả kinh tế cao, đóng góp vào giá trị sản xuất ngành thủy sản.
Nhãn hiệu “Cá nước lạnh Đà Lạt” đã được Hiệp hội Phát triển cá nước lạnh Lâm Đồng đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ và được cấp chứng nhận vào năm 2013. Cùng với các sản phẩm như rau, hoa, cà phê, chè, và tơ lụa, cá nước lạnh đã trở thành một trong những sản phẩm nông nghiệp chủ lực trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững của tỉnh.
Xác định cá nước lạnh là sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, Lâm Đồng đang tập trung nguồn lực đầu tư sâu rộng để hình thành chuỗi ngành hàng có giá trị gia tăng cao, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc tế.
Để phát triển nuôi cá nước lạnh một cách bền vững trong tương lai, Lâm Đồng sẽ tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm sản xuất con giống chất lượng cao, tăng cường kiểm soát dịch bệnh và dự báo môi trường. Đồng thời, sẽ phát triển và mở rộng diện tích nuôi tại các hồ chứa và đập thủy lợi.
Tỉnh cũng sẽ xây dựng vùng phát triển nuôi cá nước lạnh phù hợp với điều kiện khí hậu và nguồn nước, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường, đặc biệt là rừng tự nhiên. Ngoài ra, việc thực hiện hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực thủy sản cũng sẽ được chú trọng.
Bên cạnh đó, Lâm Đồng sẽ tiếp tục kiểm tra chặt chẽ nguồn gốc và chất lượng con giống cá nước lạnh, đồng thời giám sát chất lượng vật tư đầu vào và môi trường để nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Tỉnh cũng sẽ tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, từ ao nuôi đến thị trường tiêu thụ, trong đó doanh nghiệp sẽ đóng vai trò hạt nhân trong việc liên kết và tổ chức chuỗi.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 46
Ninh Thuận: Nhộn nhịp khai thác tôm hùm giống ven biển
Những ngày này, tại nhiều vùng biển ven bờ ở các xã như Vĩnh Hải, Thanh Hải, Nhơn Hải, Tri Hải (Ninh Hải); thôn Phú Thọ, phường Đông Hải (TP. Phan Rang – Tháp Chàm); và thôn Sơn Hải, xã Phước Dinh (Thuận Nam), ngư dân đang hào hứng bước vào chính vụ khai thác tôm hùm giống với niềm vui được mùa.
Tại khu vực bờ kè thôn Khánh Nhơn, xã Nhơn Hải (Ninh Hải) vào sáng 4/12, chúng tôi ghi nhận hơn 50 chiếc thúng máy và thúng chèo tay của ngư dân địa phương đang bận rộn với các hoạt động khai thác tôm hùm giống. Anh Nguyễn Thành Đoán, ở thôn Khánh Nhơn 1, vui mừng chia sẻ: “Sáng nay tôi đã dũ được 42 con tôm hùm xanh và sao, với giá dao động từ 30.000-35.000 đồng/con. Mành lưới bông dũ của gia đình tôi đã thả được gần 3 tuần, thu về hơn 700 con tôm, mang lại hơn 20 triệu đồng. Dù mới đầu vụ, tôm xuất hiện khá dày, khiến bà con rất phấn khởi.” Ông Nguyễn Cơ, cũng ở thôn Khánh Nhơn 1, cho biết đã khai thác được 37 con tôm hùm xanh và sao, đem về thu nhập trên 1 triệu đồng. Ông cho biết thêm: “Mùa tôm hùm thường bắt đầu từ đầu tháng 10 Âm lịch, gia đình tôi luôn tranh thủ làm từ đầu vụ để phát triển kinh tế. Năm nay, tôm nở khá dày, từ ngày 27/10 Âm lịch đến nay, mỗi ngày có hơn 1.000 con tôm được khai thác, giúp nhiều gia đình có nguồn thu nhập ổn định từ nghề biển.”
Chị Đổng Thị Thúy, một người chuyên thu mua tôm hùm giống ở xã Nhơn Hải, cho biết: “So với năm ngoái, năm nay tôm hùm xanh và sao nở rộ hơn, đặc biệt trong khoảng một tuần qua. Nhiều người khai thác tôm hùm giống đã trúng lớn, có người đánh bắt được vài chục đến vài trăm con trong một đêm, thu nhập tiền triệu mỗi ngày. Cơ sở tôi thu mua trung bình khoảng 900-1.000 con mỗi ngày, có ngày đạt đến 2.000 con tôm giống, sau đó sẽ chuyển đến các vùng ương nuôi trong tỉnh, cũng như tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên để bán lại cho người nuôi.”
Ngược lên làng biển thôn Phú Thọ, phường Đông Hải (TP. Phan Rang – Tháp Chàm), các hoạt động như bông dũ tôm hùm giống, thu mua tôm giống, và chuẩn bị đèn, bình, mành lưới cho chuyến biển mới cũng diễn ra rất sôi nổi. Ông Võ Văn Thuận cho biết: “Tôm hùm sống và sinh sản trong các rạn san hô dưới đáy biển. Vào mùa biển động từ tháng 10 Âm lịch trở đi, trứng sẽ nở và tôm hùm con sẽ nổi lên giữa dòng nước. Bà con sử dụng lưới bông dũ có gắn đá san hô đục lỗ để dụ tôm con vào trú ngụ. Khoảng 10 ngày qua, tôm nở rộ, giá cả ổn định, khiến bà con ngư dân rất phấn khởi. Sáng nay, giàn lưới bông dũ của gia đình tôi thu được 97 con, bán được hơn 2,9 triệu đồng. Tôi hy vọng tôm sẽ tiếp tục nở rộ để nâng cao thu nhập cho gia đình.”
Nghề khai thác tôm hùm giống trên địa bàn tỉnh thường bắt đầu từ tháng 10 Âm lịch đến tháng 3 Âm lịch năm sau. Năm nay, nhiều ngư dân vùng biển đã có thu nhập ổn định nhờ vào “lộc biển” đầu mùa.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 45
Nguồn:
Tạp chí Thủy sản Việt Nam
Báo Ninh Thuận
Báo Cần Thơ
Báo Bình Dương