Trong bối cảnh ngành thủy sản đang có những bước tiến đáng kể, tuần qua chứng kiến nhiều hoạt động sôi nổi. Các hoạt động nuôi trồng thủy sản đang có những tín hiệu tích cực. Bài viết này sẽ tổng hợp những thông tin cập nhật nhất về thị trường thủy sản, phục vụ nhu cầu tìm hiểu của quý bà con.
Khánh Hòa: Sản lượng thủy sản đạt 106.890 tấn
Tính đến nay, tổng sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng tại tỉnh Khánh Hòa đã đạt 106.890 tấn, tăng 0,97% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng khai thác thủy sản đạt 90.091 tấn, còn sản lượng nuôi trồng đạt 16.799 tấn. Mặc dù sản lượng thủy sản cao, nhưng gần đây, đầu ra của một số mặt hàng như cá ngừ vằn và tôm hùm xanh đang gặp khó khăn, khiến người dân chưa hoàn toàn yên tâm trong sản xuất.
Để ổn định đầu ra và nâng cao thu nhập cho người dân, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương đã tích cực triển khai nhiều giải pháp nhằm chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định. Những nỗ lực này nhằm gỡ bỏ cảnh báo “thẻ vàng” từ EC và kịp thời thực hiện các chính sách hỗ trợ cho ngư dân. Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, các cơ quan chức năng cũng thường xuyên giám sát các vùng nuôi để đảm bảo an toàn dịch bệnh và bảo vệ môi trường, đồng thời hướng dẫn ngư dân về kỹ thuật nuôi trồng phù hợp với nhu cầu thị trường.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 45
Trà Vinh: Phát triển diện tích nuôi thâm canh
Theo thông tin từ Cục Thống kê Trà Vinh, thời gian gần đây, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh mật độ cao tại tỉnh đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhờ vào năng suất cao và hiệu quả kinh tế mang lại.
Dự kiến sản lượng thủy sản trong tháng 10/2024 sẽ đạt khoảng 22.950 tấn, bao gồm các loại tôm, cá, giảm 5,12% (tương đương 1.239 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng cá ước đạt 11.772 tấn, tăng 6,86% (755 tấn); tôm ước đạt 8.897 tấn, giảm 11,71% (1.181 tấn); thủy sản khác ước đạt 2.282 tấn, giảm 26,29% (814 tấn).
Lũy kế cho 10 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 205.062 tấn, tăng 1,82% (3.662 tấn) so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng cá ước đạt 93.293 tấn, tăng 0,15% (142 tấn); tôm ước đạt 90.931 tấn, tăng 3,5% (3.075 tấn); thủy sản khác ước đạt 20.838 tấn, tăng 2,18% (445 tấn).
Sản lượng nuôi trồng thủy sản trong tháng 10/2024 ước đạt 18.582 tấn, giảm 5,16% (1.010 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, sản lượng cá ước đạt 9.382 tấn, tăng 7,84% (682 tấn); tôm ước đạt 8.454 tấn, giảm 12,48% (1.206 tấn); thủy sản khác ước đạt 745 tấn, giảm 39,50% (486 tấn).
Lũy kế cho 10 tháng đầu năm 2024, sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 165.211 tấn, tăng 0,87% (1.428 tấn) so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng cá ước đạt 70.361 tấn, giảm 2,21% (1.589 tấn); tôm ước đạt 87.037 tấn, tăng 3,42% (2.878 tấn); thủy sản khác ước đạt 7.814 tấn, tăng 1,81% (139 tấn).
Một số loại thủy sản chủ yếu trong 10 tháng đầu năm 2024 bao gồm: tôm sú 9.493 tấn, tăng 149 tấn; tôm thẻ chân trắng 75.393 tấn, tăng 2.965 tấn; cá lóc 54.206 tấn, giảm 201 tấn; cá tra 5.649 tấn, tăng 1.334 tấn; tôm càng xanh 2.107 tấn, giảm 258 tấn.
Sản lượng nuôi trồng tăng chủ yếu trong lĩnh vực nuôi cá tra và tôm thẻ chân trắng. Sản lượng cá tra tăng do xuất khẩu và tiêu thụ thủy sản phục hồi, giá cá thương phẩm đã tăng và duy trì ở mức cao, dẫn đến mở rộng diện tích nuôi. Sản lượng tôm thẻ chân trắng tăng nhờ vào diện tích nuôi siêu thâm canh mật độ cao đang phát triển, với năng suất cao và hiệu quả kinh tế tốt. Mặc dù cần vốn đầu tư lớn, nhưng rủi ro thấp nên nhiều hộ đã mạnh dạn mở rộng diện tích nuôi.
Trong tháng 10/2023, diện tích thả nuôi tôm, cua, cá các loại tại tỉnh ước đạt 1.829 ha. Tổng lũy kế cho 10 tháng đầu năm 2024, diện tích thả nuôi ước đạt 38.927 ha, tăng 4,69% (1.744,61 ha) so với cùng kỳ.
Tính đến giữa tháng 10/2024, đã có 4.982 hộ tham gia thả nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh, với tổng số 2.428,45 triệu con tôm giống trên diện tích 2.524,86 ha theo hình thức thâm canh mật độ cao. Trong đó, huyện Duyên Hải có 1.674 hộ (949,85 triệu con, 458,28 ha); thị xã Duyên Hải có 2.883 hộ (1.110,85 triệu con, 1.923,3 ha); huyện Cầu Ngang có 425 hộ (367,75 triệu con, 143,3 ha).
Tổng diện tích nuôi thủy sản đã vượt so với cùng kỳ, đặc biệt là mô hình nuôi thâm canh mật độ cao đang phát triển mạnh. Hiện tại, nông dân vùng ven biển của tỉnh đang bước vào mùa vụ thu hoạch cuối vụ, chuẩn bị cho mùa vụ nuôi trồng thủy sản mới.
Dự báo trong năm 2024, ngành nông nghiệp tỉnh Trà Vinh sẽ đạt tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản khoảng 195.000 tấn, tăng khoảng 3.000 tấn so với năm 2023, vượt mức kế hoạch đề ra 7,19% về giá trị sản xuất, với giá trị sản xuất đất nuôi trồng thủy sản đạt hơn 410 triệu đồng/ha/năm.
Mục tiêu của tỉnh cho năm 2025 là đạt sản lượng nuôi trồng ven biển trên 200.000 tấn, nhằm tăng trưởng giá trị tăng thêm của ngành thủy sản khoảng 5%/năm. Ngành nông nghiệp đang tiến hành rà soát quy hoạch và tăng cường hỗ trợ ứng dụng khoa học – công nghệ trong nuôi thủy sản cho nông dân, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Đồng thời, tỉnh cũng khuyến khích các địa phương ven biển khai thác khoảng 50.000 ha đất ven biển và 15.000 ha đất bãi bồi, cồn nổi để đa dạng hóa đối tượng nuôi thủy sản, qua đó tạo giá trị gia tăng và giúp nông dân tăng thu nhập bền vững.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 44
Bến Tre: Chuyển biến tích cực về phát triển kinh tế biển
Sau hơn 4 năm thực hiện, Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 29-1-2021 của Tỉnh ủy về phát triển tỉnh theo hướng Đông trong giai đoạn 2021 – 2025, với tầm nhìn đến năm 2030, đã được áp dụng hiệu quả và mang lại những kết quả rõ rệt trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong phát triển hạ tầng giao thông, năng lượng tái tạo, công nghiệp và du lịch biển.
Cụ thể, tỉnh Nghệ An đã quy định nguyên tắc cho việc chấp thuận đóng mới, cải hoán, thuê hoặc mua tàu cá hoạt động trên biển phải phù hợp với hạn ngạch giấy phép khai thác thủy sản đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giao và được UBND tỉnh công bố. Tỉnh không khuyến khích phát triển và sẽ giảm dần số lượng tàu cá khai thác bằng nghề lưới kéo, lưới rê thu ngừ, đồng thời ưu tiên chuyển đổi sang các nghề câu và hậu cần đánh bắt nhằm phát triển nghề cá một cách bền vững. Quy trình xét duyệt hồ sơ đề nghị cấp văn bản chấp thuận cho việc đóng mới, cải hoán, thuê hoặc mua tàu cá phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và tuân thủ đúng quy trình đã được quy định.
Nuôi trồng và khai thác thủy hải sản
Nghị quyết số 04-NQ/TU đã thúc đẩy sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, cùng các cơ quan, đơn vị và địa phương. Điều này cũng đã tạo ra sự đồng thuận trong nhân dân khi triển khai các chủ trương chung của tỉnh, đặc biệt là trong việc huy động nguồn lực cho các công trình trọng điểm phát triển theo hướng Đông.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Nguyễn Văn Buội cho biết, hiện diện tích nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao (CNC) đã tăng thêm 3.509 ha. Dự kiến đến cuối năm 2025, con số này sẽ đạt 4.000 ha, hoàn thành 100% kế hoạch đề ra. Tổng sản lượng nuôi tôm ứng dụng CNC hiện đạt 187.000 tấn, vượt 129,86% so với kế hoạch ban đầu là 144.000 tấn. Diện tích nuôi tôm nước lợ hiện đạt 35.580 ha và dự kiến sẽ đạt 36.000 ha vào cuối năm 2025, tương ứng với 86,74% chỉ tiêu đề ra.
Ngành chế biến thủy sản ước tính sẽ có mức tăng trưởng bình quân 0,39%/năm, đóng góp 13,48% vào giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản ước tăng bình quân 10,30%/năm, chiếm 5,56% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
Theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Nguyễn Văn Buội, tỉnh đang tiếp tục thực hiện Đề án chuyển đổi nghề khai thác thủy sản đến năm 2030, với mục tiêu khắc phục cảnh báo “thẻ vàng” từ EC. Các cảng cá tại Ba Tri và Bình Đại đã thực hiện tốt công tác phòng chống khai thác IUU. Hiện tỉnh có 3.080 tàu cá, trong đó có 2.034 tàu đánh bắt xa bờ. Tỉnh đã chuyển vùng cho 15 phương tiện, cải hoán 61 phương tiện, xóa bỏ 686 phương tiện, và 2.006/2.034 tàu cá thuộc diện bắt buộc lắp đặt thiết bị giám sát (khoảng 98,6%). Tổng sản lượng khai thác thủy sản đến cuối tháng 8-2024 đạt 175.650 tấn, duy trì ổn định khoảng 200.000 tấn/năm.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 43
Năng lượng tái tạo
Hiện tỉnh có 2 khu công nghiệp (KCN) đã lấp đầy 100%. KCN Phú Thuận đang thu hút 22 nhà đầu tư, với tổng diện tích đăng ký đầu tư đạt 85%. Tỉnh đã thành lập 8 cụm công nghiệp (CCN) với tỷ lệ lấp đầy đạt 37,4%.
Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2021 – 2025 của các huyện ven biển ước tăng bình quân 4,57%/năm, chiếm 14,21% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, tuy nhiên vẫn chưa đạt mục tiêu kế hoạch đề ra là 30%.
Giám đốc Sở Công Thương Nguyễn Văn Bé Sáu cho biết, tỉnh đang tập trung vào các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió tại 3 huyện ven biển. Trên địa bàn tỉnh hiện có 20 dự án điện gió đã được cấp thẩm quyền phê duyệt, với tổng công suất 1.250,2 MW. Trong số đó, 6 dự án đã đi vào hoạt động hoàn toàn, 2 dự án hoạt động một phần, và 12 dự án chưa triển khai thi công. Tổng công suất đóng điện hòa lưới đạt 250,75 MW. Tỉnh đã đề xuất 3 dự án điện khí hóa lỏng (LNG) với tổng công suất trên 10 GW vào Quy hoạch Điện VIII.
Ngoài ra, UBND tỉnh còn thành lập Tổ công tác để xây dựng tổ hợp nhà máy Hydro xanh Bến Tre, đang trình Bộ Công Thương phê duyệt chủ trương thực hiện dự án này cùng với các nguồn điện tự sản tự tiêu phục vụ cho nhà máy.
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam Nguyễn Tài Anh khẳng định rằng Tập đoàn sẵn sàng hỗ trợ về nguồn vốn cho địa phương xây dựng các công trình điện đã được phê duyệt theo quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, cũng như quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021 – 2030.
Hiện tại, Tập đoàn Điện lực miền Nam đang triển khai 6 công trình lưới điện và trạm biến áp 110kV trọng điểm trên địa bàn tỉnh, bao gồm: Đường dây 110kV Giao Long – Phú Thuận, Đường dây 110kV Phú Thuận – Bình Đại, Đường dây 110kV Ba Tri – Bình Thạnh, Trạm 110kV Phú Thuận, Đường dây và trạm biến áp 110kV An Hiệp, cùng với Trạm 110kV Thanh Tân và các công trình đầu tư xây dựng lưới điện trung hạ thế.
Cuối cùng, Quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 11-2023, mở ra cơ hội cho các dự án trọng điểm phát triển kinh tế biển và hạ tầng giao thông. Trong đó, các công trình hạ tầng trọng điểm khu vực biển qua các tuyến quốc lộ 57, 57B, 57C đang được triển khai, giúp kết nối Bến Tre với Tiền Giang và Trà Vinh.
Đặc biệt, dự án xây dựng cầu Cổ Chiên 2 và cầu Cửa Đại cũng đã được trình Chính phủ xem xét. Dự án xây dựng cầu Ba Lai 8 trên tuyến đường bộ ven biển tỉnh đã hoàn thành thủ tục, chuẩn bị thi công gói thầu số 2, trong khi gói thầu số 1 đang thực hiện quy trình lựa chọn nhà thầu và gói thầu số 3 đang trong giai đoạn lập thiết kế bản vẽ thi công và dự toán. Các hạng mục hạ tầng chủ yếu như hạ tầng giao thông – logistics, hạ tầng thủy lợi, hạ tầng cấp nước sạch, hạ tầng nuôi tôm ứng dụng CNC, hạ tầng công nghiệp và năng lượng đang được đầu tư hoàn thiện từng bước. Công tác phát triển nguồn nhân lực cũng được chú trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 42
Hà Tĩnh: Rủi ro lớn, lợi nhuận cao – người dân “mạo hiểm” nuôi tôm vụ đông
Nuôi tôm trong vụ đông thường tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhưng bà con nông dân tại Hà Tĩnh vẫn quyết định “đánh bạc với trời” vì cơ hội lợi nhuận cao nếu thành công.
Gần 2 tuần trước, anh Nguyễn Đức ở xã Thạch Sơn, Thạch Hà đã thả hơn 400.000 con tôm giống cho vụ đông. Đây là lần thứ hai anh xuống giống chỉ trong hơn một tháng. Anh Đức chia sẻ: “Thời tiết thường xuyên có mưa lớn khiến việc chăm sóc tôm gặp khó khăn. Lứa tôm đầu tiên thả đầu tháng 10 bị nhiễm bệnh hồng thân, tôi đã phải xả ao sớm. Tuy nhiên, với kinh nghiệm cho thấy nuôi tôm vụ đông có giá cao, tôi vẫn quyết định đầu tư thêm để thả đợt 2, hy vọng sẽ thành công. Vụ này rủi ro cao, nên tôi chỉ thả nuôi 3 trong 6 ao, tổng diện tích gần 0,8 ha.”
Thời tiết diễn biến thất thường với nhiều cơn mưa ngay đầu vụ đã báo hiệu những thách thức cho việc nuôi tôm vụ đông ở Hà Tĩnh. Không chỉ riêng anh Đức, một số hợp tác xã, doanh nghiệp và cá nhân tại các vùng nuôi như Nghi Xuân, Lộc Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh… cũng sẵn sàng “mạo hiểm” đầu tư nuôi tôm vụ đông, do lợi nhuận có thể gấp 2 – 2,5 lần so với vụ chính (tôm cỡ 50 con/kg có giá 250.000 đồng, 60 con/kg là 200.000 đồng, và 70 – 80 con/kg có giá 170.000 đồng).
Chủ đầm tôm N.P ở xã Cẩm Dương, Cẩm Xuyên cho biết: “Khoảng 10 ngày nữa, tôi sẽ tiến hành xuống giống thâm canh tôm vụ đông trên diện tích gần 1 ha với khoảng 1 triệu con giống. Tại Hà Tĩnh, nuôi tôm vụ đông đối mặt với nhiều yếu tố bất lợi như chi phí sản xuất cao và rủi ro lớn do biến đổi khí hậu phức tạp. Từ nay đến cuối năm, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm rất lớn, không thuận lợi cho tôm phát triển, nhưng lại tạo điều kiện cho mầm bệnh xuất hiện, đặc biệt là bệnh đốm trắng, có thể gây thiệt hại lớn cho người nuôi.”
Theo thông tin từ Phòng NN&PTNT huyện Nghi Xuân, toàn huyện có khoảng 40 ha xuống giống nuôi tôm vụ đông. Phần lớn diện tích này sẽ thu hoạch vào dịp Tết Nguyên đán và sau Tết. Dù thời tiết lạnh và có thể có rét đậm kéo dài, khiến tôm chậm lớn, nhưng đây lại là cơ hội cho người nuôi bởi nguồn cung hạn chế, trong khi nhu cầu thị trường tăng, dẫn đến giá bán cao.
Thực tế cho thấy, nuôi tôm vụ đông rất khó thành công vì thời gian nuôi kéo dài từ 4 – 5 tháng, với nhiều yếu tố như thời tiết lạnh, mưa bão ở đầu vụ và rét hại vào cuối vụ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều người nuôi đã đầu tư vào công nghệ hiện đại để giảm thiểu tác động của môi trường, cho phép thả nuôi quy mô lớn trong vụ sản xuất nhiều rủi ro này, mang lại lợi nhuận cao.
Anh Nguyễn Văn Hòa, Giám đốc HTX Nuôi trồng thủy sản Hạ Vàng ở thôn Liên Tiến, xã Thạch Hạ, TP Hà Tĩnh, cũng vừa thả nuôi hơn 300.000 con tôm thẻ chân trắng. Theo anh Hòa, dù HTX đã đầu tư công nghệ hiện đại, nuôi nhiều giai đoạn trong bể tròn có màng che, kiểm soát được biến động nhiệt độ và môi trường nước, nhưng vẫn cần cẩn trọng vì nuôi tôm rất khó lường. Dịch bệnh trên tôm nước lợ đang gia tăng trên cả nước, đặc biệt là bệnh hoại tử gan tụy cấp, vi bào tử trùng EHP, bệnh hồng thân và còi cọc.
Bà Nguyễn Thị Hoài Thúy, Trưởng phòng Nuôi trồng thủy sản (Chi cục Thủy sản Hà Tĩnh), cho biết rằng người nuôi tôm vụ đông thường phải đối mặt với nhiều yếu tố bất lợi và rủi ro cao do thời tiết biến đổi phức tạp. Ngành chuyên môn khuyến cáo chỉ nên thả nuôi ở những vùng tránh được mưa lũ, cần được đầu tư bài bản theo hình thức thâm canh, công nghệ cao trên cát để có hy vọng đạt hiệu quả kinh tế. Những diện tích ao nuôi quảng canh hoặc quảng canh cải tiến chỉ nên nuôi xen ghép, luân canh các đối tượng tôm, cua, cá ở các vùng nuôi trung triều có ao đầm độ sâu hơn 1m nhằm cải thiện thu nhập.
Để tôm phát triển an toàn và đạt năng suất cao, ngành chuyên môn khuyến khích các hộ nuôi áp dụng công nghệ an toàn sinh học, nuôi bể nổi và ương tôm trong nhà màng. Khi đạt kích cỡ tốt, tôm mới được thả ra môi trường tự nhiên, thực hiện nuôi nhiều giai đoạn. Trong quá trình nuôi, việc chăm sóc rất quan trọng; khi nhiệt độ xuống thấp, cần giảm lượng thức ăn và số lần cho ăn; định kỳ kiểm tra các yếu tố môi trường hàng ngày vào buổi sáng và chiều, và nếu các chỉ số môi trường không nằm trong ngưỡng thích hợp, phải có biện pháp xử lý ngay.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 41
Nguồn:
Báo Khánh Hòa
Báo Đồng Khởi
Báo Hà Tĩnh
Tạp chí Thủy sản Việt Nam