Trong bối cảnh ngành thủy sản Việt Nam đang diễn ra những thay đổi mạnh mẽ, bản tin tuần này hứa hẹn sẽ cung cấp cho bà con những thông tin bổ ích và mới nhất về lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Mời bà con cùng Khai Nhật tìm hiểu những xu hướng nổi bật, giúp bà con nắm bắt kịp thời những thông tin quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất trong bản tin tuần này nhé!
Bạc Liêu: Gỡ “nút thắt” nuôi tôm công nghệ cao
Trong những năm qua, mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao tại Bạc Liêu đã có những bước tiến vượt bậc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức cần phải vượt qua để mở rộng mô hình này.
Năng suất cao
Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường Bạc Liêu, dự kiến đến đầu năm 2025, diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh sẽ đạt hơn 150.000 ha, với nhiều hình thức sản xuất đa dạng mang lại giá trị kinh tế cao. Cụ thể, mô hình nuôi tôm siêu thâm canh, thâm canh và bán thâm canh đã chiếm gần 33.000 ha; mô hình tôm – lúa hơn 46.000 ha; và quảng canh cải tiến kết hợp đạt hơn 67.000 ha.
Một điểm nổi bật trong nuôi trồng thủy sản là sự phát triển của các mô hình sản xuất sạch, hữu cơ và ứng dụng công nghệ cao, được nhiều công ty và doanh nghiệp thực hiện. Hiện tại, Bạc Liêu đã có 6 công ty được Bộ NN&PTNT và UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, cùng với 23 doanh nghiệp và hợp tác xã, cùng 316 hộ dân đạt tiêu chuẩn quốc tế như BAP, GlobalGAP, ASC,….
Nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao có thể đạt năng suất gấp 10 đến 15 lần so với phương pháp truyền thống. Bạc Liêu hiện đã xây dựng 5 vùng nuôi tôm công nghệ cao với tổng diện tích hơn 7.000 ha, bao gồm hai khu nuôi tôm an toàn sinh học đạt tiêu chuẩn quốc tế và năm tổ chức địa phương được chứng nhận nuôi tôm hữu cơ. Sự phát triển hạ tầng đã giúp sản lượng nuôi tôm đạt 320.000 tấn trong năm 2024.
Trên địa bàn tỉnh, có 48 nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu với thiết bị hiện đại, công suất chế biến khoảng 294.000 tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,18 tỷ USD, trong đó tôm đông lạnh chiếm hơn 1,13 tỷ USD, tăng hơn 16% so với cùng kỳ. Các sản phẩm tôm đã được chế biến đạt tiêu chuẩn và có mặt tại các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều nơi khác trên thế giới.
Vượt thách thức
Dù đã đạt được nhiều thành tựu, ngành tôm Bạc Liêu vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Một trong những vấn đề lớn là tình trạng một số người dân lén xả thải ra môi trường, gây khó khăn cho công tác phòng chống dịch bệnh và ô nhiễm môi trường. Hệ thống cơ sở hạ tầng và liên kết tiêu thụ cũng còn yếu, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển. Đặc biệt, giá vật tư đầu vào tăng cao đã ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân. Hiện tượng nước biển dâng và xâm nhập mặn cũng đang ảnh hưởng đến nguồn nước cho các khu vực nuôi tôm, đặc biệt là nuôi tôm công nghệ cao.
Ông Phạm Văn Thiều – Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu cho biết: “Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 – 2025 xác định nuôi trồng thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó mô hình nuôi tôm siêu thâm canh là điểm nhấn, tạo bước đột phá trong nghề nuôi trồng thủy sản. Tỉnh hiện có ba mặt hàng xuất khẩu chính là tôm, gạo và muối, trong đó tôm chiếm hơn 95% kim ngạch xuất khẩu.”
Để đưa Bạc Liêu trở thành trung tâm công nghiệp tôm của cả nước, Tỉnh ủy, UBND và các sở, ban, ngành, cùng với từng hộ nuôi tôm trong tỉnh cần nỗ lực và quyết tâm hơn nữa trong việc triển khai các nhiệm vụ được giao, nhằm phát triển nghề nuôi tôm công nghệ cao và nuôi tôm công nghiệp lên tầm cao mới.
Theo ông Lưu Hoàng Ly – Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Bạc Liêu, cần tập trung vào quy hoạch vùng nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao phù hợp với quy hoạch kinh tế – xã hội của tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050. Cần khuyến khích các công ty và doanh nghiệp tiếp tục đầu tư, mở rộng quy mô và diện tích nuôi công nghệ cao, đặc biệt là các dự án đã được cấp chứng nhận đầu tư. Đồng thời, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến trong nuôi tôm và xử lý nước thải để bảo vệ môi trường. Hợp tác với các viện, trường để áp dụng quy trình và công nghệ đã được công nhận như nuôi tôm siêu thâm canh kết hợp đa loài, công nghệ tuần hoàn khép kín và công nghệ sinh học trong xử lý mầm bệnh. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã và liên kết chuỗi giá trị để xây dựng thương hiệu tôm Bạc Liêu.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 10
Hà Tĩnh: Vùng nuôi ngao nổi tiếng hối hả vào vụ thu hoạch
Những ngày gần đây, với thời tiết thuận lợi, người dân ở vùng nuôi ngao xã Mai Phụ, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh đang hối hả thu hoạch sản phẩm. Đầu năm, ngao được mùa và giá cả tăng cao, khiến người nông dân rất phấn khởi.
Tại vùng thu hoạch ngao ở xã Mai Phụ vào một buổi trưa đầy nắng, chúng tôi lên thuyền chở ngao vừa thu hoạch. Ông Nguyễn Xuân Vịnh, một người dân ở thôn Mai Lâm, vui vẻ chia sẻ: “Gia đình tôi có 2 ha bãi bồi ở Cửa Sót, hiện nay đang tập trung thu hoạch để cung ứng cho thị trường. So với thời điểm trước Tết Nguyên đán, hiện tại người tiêu dùng mua ngao nhiều hơn, giúp việc bán hàng trở nên dễ dàng hơn. Sản lượng bán mỗi ngày tăng từ 20 – 30%, và giá cũng cao hơn từ 1.000 – 2.000 đồng/kg. Vì vậy, gia đình tôi đang cố gắng đẩy nhanh tiến độ thu hoạch để chuẩn bị cho bãi bồi, tái thả giống mới.”
Ông Vịnh cho biết thêm, trước đây, việc thu hoạch ngao hoàn toàn thủ công rất vất vả, nhưng giờ đây nhờ vào máy móc, chỉ trong 1 giờ có thể thu hoạch từ 2-3 tấn ngao thương phẩm. Sau khi thu hoạch, thuyền sẽ đưa ngao về bờ để phân loại, xử lý sơ bộ, rồi đóng vào bao tải để bán cho thương lái. Với hơn 2 ha, gia đình ông Vịnh dự kiến thu được khoảng 50 tấn ngao thương phẩm, và với giá hiện tại, ông có thể thu về hơn nửa tỷ đồng.
Cách đó không xa, ông Đào Xuân Niệm, cũng ở thôn Mai Lâm, đang tất bật cùng các nhân công kéo máy và chất ngao lên thuyền. Ông cho biết: “Gia đình tôi sản xuất gần 3 ha ngao, đã xuống giống từ tháng 4 năm ngoái. Năm nay, ngao được mùa và giá bán cũng cao hơn, nên chúng tôi đang tích cực thu hoạch để bán ra thị trường.” Ông Niệm chia sẻ, nghề nuôi ngao vất vả vì phải thường xuyên theo dõi thủy triều và tình hình dịch bệnh, nhưng lợi nhuận thu về lại cao gấp 2 – 3 lần so với vốn đầu tư.
Hiện tại, các hộ nuôi ngao thuộc Chi hội nghề nghiệp nuôi trồng thủy sản Mai Lâm cũng đang phấn khởi thu hoạch sau hơn 13 tháng xuống giống. Nhờ bãi nuôi tốt, giống chất lượng, và thời tiết thuận lợi, ngao đạt trọng lượng khoảng 80-90 con/kg và được thương lái thu mua tận nơi với mức giá từ 11 – 13 nghìn đồng/kg. Dự kiến trong 1 – 2 tháng tới, Chi hội này sẽ bán hết hơn 1.000 tấn ngao với giá tốt.
Ông Nguyễn Ngọc Mai, Chi hội trưởng Chi hội nghề nghiệp Mai Lâm, cho biết: “Trước đây, người nuôi ngao chủ yếu làm thủ công, không chú trọng đầu tư bãi nuôi và giống, dẫn đến chất lượng ngao không cao. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các thành viên trong chi hội đã liên kết sản xuất, đầu tư vào bãi nuôi và chọn giống ngao Bến Tre, đồng thời tuân thủ quy trình kỹ thuật, nên sản lượng ngao đã tăng đáng kể. Trung bình mỗi ha đạt từ 30 – 40 tấn ngao thương phẩm sau hơn một năm xuống giống, mang lại nguồn thu từ 250 – 300 triệu đồng.”
Theo ông Mai, để nuôi ngao thành công, người nuôi cần nắm vững kỹ thuật, vệ sinh bãi triều trước khi thả giống, lựa chọn con giống lớn để nhanh thu hoạch và giảm thiểu thất thoát. Bãi nuôi cần có nền đất cát hoặc cát pha bùn, và phải bằng phẳng để đảm bảo ngao phát triển tốt. Trước mỗi vụ nuôi, cần khử trùng đầm bãi và theo dõi sự thay đổi thời tiết để có chế độ chăm sóc phù hợp. Thời điểm thu hoạch ngao thương phẩm lý tưởng là vào đầu năm và cuối năm, khi giá cả tốt và thời tiết thuận lợi.
Thời điểm này, thị trường tiêu thụ ngao đang rất “ấm”, cùng với chất lượng sản phẩm được đánh giá cao, nên ngao từ vùng Mai Phụ được thương lái thu mua hết ngay tại bến. Ông Nguyễn Văn Hiền, thương lái từ tỉnh Thanh Hóa, cho biết: “Năm nay, Hà Tĩnh được mùa ngao, ngao ở vùng Mai Phụ rất béo, chắc và ngon, được thị trường ưa chuộng. Mỗi ngày, chúng tôi thu mua khoảng 10 tấn ngao để bán cho các cửa hàng tại tỉnh Thanh Hóa.”
Không chỉ các chủ hộ nuôi ngao phấn khởi vì ngao được mùa, mà những người làm nghề cào ngao, phân loại và dọn bãi thuê cũng có thêm thu nhập. Chị Phan Thị Yến, một nhân công ở thôn Mai Lâm, cho biết: “Gia đình tôi có 3 ha bãi bồi nuôi ngao, nhưng chưa đến mùa thu hoạch, nên hiện tại tôi làm công cho các hộ đã thu hoạch. Tiền công tính theo sản phẩm, dao động từ 200.000 – 300.000 đồng/ngày. Khi ngao chạy hàng và có giá, người ta thường thuê mình làm cả ngày, giúp tôi có việc và thu nhập ổn định.”
Theo ông Phạm Trọng Hợp, Phó Chủ tịch UBND xã Mai Phụ, huyện Thạch Hà, toàn xã hiện có hơn 80 ha diện tích nuôi ngao với 45 hộ sản xuất. Sản phẩm ngao thịt của các hộ dân được thương lái thu mua và bán ra khắp cả nước. Nhiều hộ đã thoát nghèo và có cuộc sống khá giả nhờ nghề nuôi ngao, đồng thời nghề này cũng tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương.
Để phát triển bền vững nghề nuôi ngao, chính quyền địa phương sẽ tiếp tục phối hợp với ngành chuyên môn tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân. Đồng thời, tuyên truyền và hướng dẫn các hộ nuôi ngao tuân thủ quy trình kỹ thuật, xây dựng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích người dân vay vốn để đẩy mạnh sản xuất ngao thương phẩm.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 9
Đà Nẵng: Người dân tất bật chuẩn bị vụ mới
Sau Tết, người nuôi thủy sản ở Đà Nẵng đang bận rộn cải tạo ao hồ, chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện về giống, thức ăn… để bắt đầu vụ nuôi mới với hy vọng trúng mùa và được giá.
Chuẩn bị các điều kiện
Tại vùng nuôi tôm Trường Định, nằm dọc sông Cu Đê (thôn Trường Định, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang), với tổng diện tích hơn 30 ha và 44 hộ nuôi, hoạt động nuôi tôm đã mang lại hiệu quả kinh tế cao và cải thiện đời sống người dân trong khu vực. Những ngày này, ông Đỗ Trực cùng nhiều nông dân khác đang tập trung thoát nước, nạo vét bùn đáy ao và diệt vi khuẩn gây bệnh bằng vôi. Với 2 ao nuôi tổng diện tích hơn 8.000 m², ông dự kiến thả 350.000 con tôm giống cho cả hai ao. Sau khi hoàn tất cải tạo, ông sẽ xử lý nước để đảm bảo độ pH đạt chuẩn trước khi thả giống.
“Mỗi vụ nuôi tôm thường kéo dài từ 2,5 đến 3 tháng. Vụ sau Tết là vụ quan trọng nhất đối với người nuôi, vì đây là thời gian lý tưởng để tôm phát triển mà ít bị ảnh hưởng bởi thời tiết. Số lượng tôm giống trong vụ này cao hơn 40% so với vụ trước,” ông Trực chia sẻ.
Cũng trong khoảng 7-8 ngày tới, anh Đỗ Trọng Đức (thôn Trường Định) sẽ bắt đầu thả 300.000 con tôm thẻ chân trắng tại 2 ao với tổng diện tích gần 10.000 m². Ông Võ Văn Thành, Trưởng thôn Trường Định, cho biết trong vụ này, người dân trong vùng sẽ thả khoảng 2 triệu con tôm giống, tạo ra năng suất và sản lượng cao hơn so với các thời điểm khác. Với hai vụ nuôi mỗi năm, sản lượng xuất bán bình quân của vùng đạt 40 tấn/năm, mang lại doanh thu từ 200 – 300 triệu đồng/năm, và lãi ròng từ 100 – 150 triệu đồng/năm.
Cung ứng giống chất lượng
Tại vùng nuôi cá nước ngọt xã Hòa Khương (huyện Hòa Vang), các công đoạn cải tạo ao nuôi, thay nước, đắp lại bờ đất bị sạt lở, và chuẩn bị nguồn giống chất lượng đã được các hộ dân hoàn tất. Ông Nguyễn Kế Hiệp, Phó Chủ tịch UBND xã Hòa Khương cho biết, sản lượng vụ nuôi trước Tết đã cơ bản thu hoạch xong, do đó bà con đang tích cực cải tạo ao hồ để thả giống đúng lịch vụ. Địa phương đang phối hợp với các đơn vị liên quan để cung ứng giống cá chất lượng cho các hộ nuôi.
Theo thống kê, huyện Hòa Vang hiện có hơn 126,5 ha diện tích nuôi trồng thủy sản với 481 hộ phát triển các mô hình thủy sản nước ngọt. Những năm gần đây, nhiều hộ nuôi đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ cao, đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Sản lượng thủy sản bình quân trên địa bàn huyện đạt 815 tấn/năm. Dự kiến giá trị sản xuất thủy sản của huyện năm 2024 sẽ đạt 72 tỷ đồng, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Để đảm bảo con giống đạt chất lượng tốt cho vụ nuôi năm nay, ngành chức năng huyện Hòa Vang khuyến cáo người dân chú ý đến mật độ nuôi, quy trình chăm sóc và quản lý ao nuôi, cùng kỹ thuật vận chuyển. Các xã trên địa bàn đang tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho người dân phát triển nuôi trồng thủy sản, đồng thời vận động khuyến khích đầu tư hạ tầng, nuôi theo quy trình VietGAP và xây dựng chuỗi liên kết sản xuất.
Trong thời gian tới, huyện Hòa Vang sẽ tiếp tục phát triển thủy sản theo hướng tập trung thâm canh, sản xuất hàng hóa, tăng cường liên kết và hỗ trợ nhau về vốn, giống, kỹ thuật cũng như tiêu thụ sản phẩm, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển thủy sản theo hướng an toàn, bền vững.
>>> Xem thêm: ĐIỂM TIN THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN TUẦN 8
Trà Vinh: Khai thác thế mạnh nuôi trồng thủy sản tại địa phương
Vào năm 2025, tỉnh Trà Vinh dự kiến sẽ thả nuôi 24.000 ha tôm sú, đạt sản lượng khoảng 10.500 tấn, cùng với 8.000 ha tôm thẻ chân trắng, sản lượng gần 90.000 tấn. Để thực hiện mục tiêu này, tỉnh đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm phát triển bền vững ngành tôm nước lợ.
Tỉnh Trà Vinh sở hữu 65 km đường bờ biển, mang lại nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển nuôi trồng thủy sản, trong đó nuôi tôm nước lợ được xác định là ngành kinh tế chủ chốt. Diện tích nuôi tôm nước lợ của Trà Vinh hiện đứng thứ 6 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với tổng diện tích trên 33.330 ha, sản lượng đạt hơn 94.000 tấn và giá trị sản xuất vượt 7.500 tỷ đồng. Ngành nông nghiệp địa phương đang tích cực khắc phục những tồn tại để đảm bảo sự phát triển bền vững cho nghề nuôi tôm.
Ngành tôm nước lợ Trà Vinh đã trải qua hơn 30 năm phát triển. Ban đầu, phương thức nuôi chủ yếu là quảng canh cải tiến và bán thâm canh. Đến năm 2000, nhờ chính sách đầu tư từ nhà nước vào các trại sản xuất giống và nuôi thâm canh, cùng sự phát triển của mạng lưới dịch vụ về giống, thức ăn và chế biến, hình thức nuôi thâm canh tôm sú đã phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, nghề nuôi tôm nước lợ tại tỉnh hiện đang đối mặt với nhiều thách thức. Hạ tầng tại các vùng nuôi tôm chưa được đầu tư đầy đủ, môi trường bị ô nhiễm do thâm canh hóa cao; dịch bệnh thường xuyên xảy ra, với nhiều bệnh mới xuất hiện; nguồn giống tôm chất lượng tại địa phương còn hạn chế.
Ông Sơn Sâm Phone, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản, Kiểm ngư và Biển đảo (Sở Nông nghiệp và Môi trường Trà Vinh) cho biết, tình hình biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, với hiện tượng nước biển dâng, thời tiết và độ mặn trong nước thay đổi liên tục, ảnh hưởng xấu đến môi trường nuôi. Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm chủ yếu dùng chung với sản xuất nông nghiệp, dẫn đến việc cấp thoát nước không đảm bảo, tạo điều kiện cho dịch bệnh phát sinh.
Hiện tại, Trà Vinh vẫn thiếu nguồn tôm giống chất lượng tại chỗ. Với 16 cơ sở giống, toàn tỉnh chỉ cung cấp được khoảng 1 tỷ con giống, đáp ứng khoảng 20% nhu cầu của người dân. Phần còn lại phải nhập từ các tỉnh như Ninh Thuận, Bình Thuận, Bạc Liêu, khiến việc sử dụng giống không đảm bảo chất lượng, làm giảm tỷ lệ sống của tôm nuôi.
Theo thống kê, giai đoạn 2020 – 2024, tổng diện tích nuôi tôm thiệt hại tại Trà Vinh gần 9.000 ha, chiếm 5,6% diện tích thả nuôi. Tôm chết chủ yếu trong giai đoạn từ 3 – 50 ngày tuổi, do các bệnh như đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, và bệnh đường ruột. Giá thành sản xuất tôm nuôi ở Trà Vinh hiện cũng tương đối cao.
Để đạt được mục tiêu đề ra và phát triển bền vững ngành tôm nước lợ trong thời gian tới, Trà Vinh đang thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư hạ tầng thủy lợi, điện và giao thông cho các vùng nuôi tôm trọng điểm, đồng thời tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị, trong đó doanh nghiệp là mắt xích chủ chốt dẫn dắt toàn bộ chuỗi, đảm bảo lợi ích hài hòa cho người nuôi. Tỉnh sẽ liên doanh với các tỉnh, thành phố trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh để mở rộng thị trường và khuyến khích đầu tư vào ngành tôm nước lợ.
Bên cạnh đó, Trà Vinh sẽ tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào nuôi tôm nước lợ, nhân rộng mô hình mới và giải pháp nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu. Các hình thức nuôi như chia giai đoạn, sử dụng chế phẩm sinh học và công nghệ nuôi an toàn sinh học cũng sẽ được áp dụng để giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi.
Tỉnh cũng sẽ chú trọng nâng cấp và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sơ chế và bảo quản tôm nguyên liệu, nhằm nâng cao giá trị gia tăng và đảm bảo an toàn thực phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Hỗ trợ các trang trại và doanh nghiệp nuôi chế biến tôm để nâng cao hiệu quả sản xuất, xây dựng thương hiệu và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cũng là một phần trong chiến lược phát triển.
Ngoài ra, tỉnh sẽ kêu gọi doanh nghiệp đầu tư xây dựng trại giống quy mô lớn đạt chuẩn và phát triển nuôi tôm công nghệ cao. Tăng cường hợp tác với các viện, trung tâm nghiên cứu và trường đại học trong và ngoài nước để nghiên cứu và chọn tạo giống tôm tăng trưởng nhanh và sạch bệnh, chủ động cung cấp cho vùng nuôi.
Thời gian tới, ngành chuyên môn sẽ tăng cường quan trắc và cảnh báo môi trường nước, kịp thời khuyến cáo và hướng dẫn biện pháp phòng chống dịch bệnh, thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm giảm thiểu thiệt hại trong nuôi tôm.
Nguồn: Tạp chí Thủy sản Việt Nam